Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

Bài giảng văn không quên


Bài giảng văn không quên
 Niên khóa 1950-1951 tôi học xong lớp trung học đệ nhất niên, được lên học lớp 6 hệ phổ thông 9 năm ở trường Đặng Thúc Hứa, huyện Thanh chương, Nghệ an. Đó là đầu thời kỳ chống Pháp, trường phải sơ tán vào xóm Trường yên, xã Kim bảng. Học đến lớp 6 rồi mà chúng tôi chưa hề thấy mặt mũi một cuốn sách giáo khoa nào, dậy gì là tùy thầy, kể cả môn văn học. Thầy dậy văn chúng tôi năm đó là thầy Tôn Thất Dương Tiềm, quê ở Huế. Về văn xuôi chúng tôi được học Bên đường 12 của Vũ Tú Nam... Về thơ, thầy dậy Giản dị của Lê Khắc Thiền...Đây là bài giảng văn không quên của tôi.
     Đang học thì có đoàn thanh tra của ty đến. Học trò chúng tôi được biết đã có cuộc tranh luận khá gay gắt ở văn phòng giữa đoàn thanh tra và thầy...
   Thầy kể lại: Người ta bảo tôi, giữa cuộc kháng chiến chống Pháp mà dậy học sinh bài này là không phù hợp...Chúng tôi e rằng tư tưởng học sinh sẽ lệch lạc... thầy tôi bảo lại: Không “e” gì cả, các ông có e thì cứ hỏi!
  Cả lớp cười khoái chí, có tiếng thì thào thầy chơi chữ rất hóm . Chả là học trò Nghệ đứa nào mà chả biết E hỏi là cái động từ gì? Thầy còn giải thích thêm ngắn gọn bằng một từ tiếng pháp: La nostalgie (lòng nhớ quê hương) với ý vẫn bảo vệ quan điểm của thầy.
   Cho đến giữa năm 1955  tôi ra Hà nội học  tiếp, qua anh Lê Kinh Duệ (anh họ tôi),  tôi được biết tác giả bài Giản dị tên đúng là Lê Kinh Thiền, lý do KINH thành KHẮC là khi làm hồ sơ đi thi, chữ KINH viết tắt là Kh, sau phải chữa là KHẮC. Từ đó tôi thân quen anh Thiền, tác giả bài giảng văn không quên của tôi....
 - Chắc là anh không biết là tôi đã từng học và đến bây giờ vẫn còn thuộc thơ của anh. Anh cười buồn! Chính tôi cũng đã từng mang họa về bài thơ đó.
   Tôi hứa với anh sẽ viết một bài về chuyện này nhưng chưa làm kịp thì anh đã mất!  Giá như thời đó có cái Blog như bây giờ.
Tôi vẫn thường đọc Giản dị của anh qua ba cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chống Tàu, kết thúc với huân chương kháng chiến hạng nhất...có thể xem như là một kiểm chứng ảnh hưởng không xấu của tác phẩm.
    Tưởng hồi ức rồi sẽ mờ dần rồi lãng quên. Thầy giáo, tác giả...và cả một số đông học trò chúng tôi đã về cõi vĩnh hằng cả rồi, và tôi bây giờ đã là ông lão 79 tuổi, chẳng hy vọng gì tìm lại  được xuất xứ của bài thơ.
      Một đêm nằm mãi không ngủ được, nghĩ chuyện đời, tôi tìm đến Google, hỏi một câu hú họa: Bài Giản dị của Lê Khắc Thiền ? Thật tuyệt vời! Cám ơn Google!
 Nhờ bài báo của Hàm Châu, với tựa đề “Một bài thơ nổi tiếng năm 1948, nay đọc vẫn thú”  tôi được biết thêm nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu:
Kháng chiến với những cuộc đi, làm nẩy nở những nhà thơ ngủ thầm trong lòng nhiều bạn như bài thơ này. Bài Giản dị chẳng phải là một đóa hoa tươi rất mực ném vào trong lẵng thơ kháng chiến đó ư?
   Và tướng Nguyễn Sơn, Tư lệnh Liên khu IV hồi đó, một vị tướng yêu văn nghệ, hiểu văn nghệ, công khai quả quyết Giản dị không hề sai phạm chính trị.
  Bây giờ tôi mới lại được biết thêm thầy giáo của chúng tôi và cả nhà thơ Lê Khắc Thiền 63 năm trước đã bị phê phán nặng nề, cho đó là một bài thơ điển hình còn rơi rớt lại của phái nghệ thuật vị nghệ thuật mang màu sắc đạo của tư tưởng Lão trang, không hề biết đến đấu tranh giai cấp...(!?)
  Để kết thúc chuyện này tôi  xin nhắc câu tục ngữ :Được vạ má sưng.  Giá như nhà thơ Lê Khắc Thiền và thầy Tôn Thất Dương Tiềm của chúng tôi vẫn còn má để mà sưng. Thương những người về cõi rồi mà vẫn mãi mãi băn khoăn chẳng hiểu mình sai hay đúng ?                                              
                                                  Blog Chuyện đời-Nguyễn Thanh Phú
Giản dị
Suối tự ngàn năm reo nhạc đá               
Người không biết tuổi tháng ngày trôi
Tháng ngày trôi nhẹ lướt cành thu
Nắng sưởi đồi  xanh cuốn lưới mù
Lớp lớp chuối rừng chen loáng bạc
Bướm nhà ai thả nỗi hoang vu?
Ấm cảnh hoang vu một mái nhà
Sàn cao đón gió lộng phương xa
Mảnh vườn không ngõ, không rào giậu
Ngô sắn xanh che bóng lợn gà
Giữa sàn bếp đượm lửa reo vui
Già trẻ khèn say rộn tiếng cười
Cô gái vai trần da nắng đậm
Ngây thơ hoa đỏ giắt bên tai
Lòng người cũng thắm như hoa ấy
Mộc mạc nhưng mà thấm đậm thay!
Ở đây rượu trú (1) không nồng lắm
Có uống rồi ra  mới thấy  say
Nghỉ bước đường trường ta tới đây
Nhóm lò lửa ấm, khói hòa mây
Lắng nghe nhịp sống rừng nguyên thủy
Thong thả buông lòng trong phút giây...
                  Cà roòng-Bố trạch-Quảng bình-1947
                                    Lê Khắc Thiền

Ghi chú: (1)Rượu trú:  Rượu miền núi, nấu bằng trấu .
Men bằng lá rừng.
                            

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét