Bài
giảng văn không quên
Niên khóa 1950-1951 tôi học xong lớp trung học
đệ nhất niên, được lên học lớp 6 hệ phổ thông 9 năm ở trường Đặng Thúc Hứa, huyện
Thanh chương, Nghệ an. Đó là đầu thời kỳ chống Pháp, trường phải sơ tán vào xóm
Trường yên, xã Kim bảng. Học đến lớp 6 rồi mà chúng tôi chưa hề thấy mặt mũi một
cuốn sách giáo khoa nào, dậy gì là tùy thầy, kể cả môn văn học. Thầy dậy văn
chúng tôi năm đó là thầy Tôn Thất Dương Tiềm, quê ở Huế. Về văn xuôi chúng tôi
được học Bên đường 12 của Vũ Tú
Nam... Về thơ, thầy dậy Giản dị của Lê Khắc Thiền...Đây
là bài giảng văn không quên của tôi.
Đang
học thì có đoàn thanh tra của ty đến. Học trò chúng tôi được biết đã có cuộc
tranh luận khá gay gắt ở văn phòng giữa đoàn thanh tra và thầy...
Thầy kể lại: Người ta bảo tôi, giữa cuộc
kháng chiến chống Pháp mà dậy học sinh bài này là không phù hợp...Chúng tôi e rằng
tư tưởng học sinh sẽ lệch lạc... thầy tôi bảo lại: Không “e” gì cả, các ông có e thì cứ hỏi!
Cả lớp cười khoái chí, có tiếng thì thào thầy chơi chữ rất hóm . Chả là học trò
Nghệ đứa nào mà chả biết E hỏi là cái động từ gì? Thầy còn giải
thích thêm ngắn gọn bằng một từ tiếng pháp: La
nostalgie (lòng nhớ quê hương) với ý vẫn bảo vệ quan điểm của thầy.
Cho đến giữa năm 1955 tôi ra Hà nội học tiếp, qua anh Lê Kinh Duệ (anh họ tôi), tôi được biết tác giả bài Giản dị tên đúng là Lê Kinh Thiền, lý do KINH thành KHẮC là
khi làm hồ sơ đi thi, chữ KINH viết tắt là Kh, sau phải chữa là KHẮC. Từ đó tôi
thân quen anh Thiền, tác giả bài giảng văn không quên của tôi....
- Chắc là anh không biết là tôi đã từng học và
đến bây giờ vẫn còn thuộc thơ của anh. Anh cười buồn! Chính tôi cũng đã từng
mang họa về bài thơ đó.
Tôi hứa với anh sẽ viết một bài về chuyện
này nhưng chưa làm kịp thì anh đã mất! Giá như thời đó có cái Blog như bây giờ.
Tôi vẫn thường đọc Giản
dị của anh qua ba cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chống Tàu, kết thúc với
huân chương kháng chiến hạng nhất...có thể xem như là một kiểm chứng ảnh hưởng
không xấu của tác phẩm.
Tưởng hồi ức rồi sẽ mờ dần rồi lãng quên.
Thầy giáo, tác giả...và cả một số đông học trò chúng tôi đã về cõi vĩnh hằng cả
rồi, và tôi bây giờ đã là ông lão 79 tuổi, chẳng hy vọng gì tìm lại được xuất xứ của bài thơ.
Một
đêm nằm mãi không ngủ được, nghĩ chuyện đời, tôi tìm đến Google, hỏi một câu hú
họa: Bài Giản dị của Lê Khắc Thiền ? Thật
tuyệt vời! Cám ơn Google!
Nhờ bài báo của Hàm Châu, với tựa đề “Một bài thơ nổi tiếng năm 1948, nay đọc vẫn
thú” tôi được biết thêm nhận xét của
nhà thơ Xuân Diệu:
“Kháng chiến với những cuộc đi, làm nẩy nở những nhà thơ ngủ thầm trong
lòng nhiều bạn như bài thơ này. Bài Giản dị chẳng phải là một đóa hoa tươi rất
mực ném vào trong lẵng thơ kháng chiến đó ư?
Và tướng
Nguyễn Sơn, Tư lệnh Liên khu IV hồi đó, một vị tướng yêu văn nghệ, hiểu văn nghệ, công khai quả quyết Giản dị
không hề sai phạm chính trị.
Bây giờ tôi mới lại được biết thêm thầy giáo
của chúng tôi và cả nhà thơ Lê Khắc Thiền 63 năm trước đã bị phê phán nặng nề,
cho đó là một bài thơ điển hình còn rơi rớt lại của phái nghệ thuật vị nghệ thuật
mang màu sắc đạo của tư tưởng Lão trang, không hề biết đến đấu tranh giai cấp...(!?)
Để kết thúc chuyện này tôi xin nhắc câu tục ngữ :Được vạ má sưng. Giá như nhà
thơ Lê Khắc Thiền và thầy Tôn Thất Dương Tiềm của chúng tôi vẫn còn má để mà
sưng. Thương những người về cõi rồi mà vẫn mãi mãi băn khoăn chẳng hiểu mình
sai hay đúng ?
Blog Chuyện đời-Nguyễn Thanh Phú
Giản dị
Suối
tự ngàn năm reo nhạc đá
Người
không biết tuổi tháng ngày trôi
Tháng
ngày trôi nhẹ lướt cành thu
Nắng
sưởi đồi xanh cuốn lưới mù
Lớp
lớp chuối rừng chen loáng bạc
Bướm
nhà ai thả nỗi hoang vu?
Ấm
cảnh hoang vu một mái nhà
Sàn
cao đón gió lộng phương xa
Mảnh
vườn không ngõ, không rào giậu
Ngô
sắn xanh che bóng lợn gà
Giữa
sàn bếp đượm lửa reo vui
Già
trẻ khèn say rộn tiếng cười
Cô
gái vai trần da nắng đậm
Ngây
thơ hoa đỏ giắt bên tai
Lòng
người cũng thắm như hoa ấy
Mộc
mạc nhưng mà thấm đậm thay!
Ở
đây rượu trú (1) không nồng lắm
Có
uống rồi ra mới thấy say
Nghỉ
bước đường trường ta tới đây
Nhóm
lò lửa ấm, khói hòa mây
Lắng
nghe nhịp sống rừng nguyên thủy
Thong
thả buông lòng trong phút giây...
Cà roòng-Bố trạch-Quảng bình-1947
Lê Khắc Thiền
Ghi
chú: (1)Rượu trú: Rượu miền núi, nấu bằng
trấu .
Men
bằng lá rừng.