Thứ Tư, 6 tháng 2, 2019


                          

LỊCH SỬ NGÔI NHÀ LƯU NIỆM 

         Khi đặt bút viết bài này tôi bỗng nhớ câu thơ của nhà thơ nước Pháp La mác tin (Lamartine), nghĩa tiếng Việt là: Hỡi những vật vô tri, ngươi có linh hồn chăng, nó gắn bó linh hồn ta với sức mạnh của tình yêu (1). Rồi tôi lại nghĩ, ngôi nhà này không những nó chỉ có linh hồn, mà còn có cả một số phận !

                                      Hoàn cảnh xuất hiện ngôi nhà .

   Sau khi ông Sách, chồng bà Hồng hy sinh ở nhà tù Lao bảo, bà Hòe là mẹ bà Hồng, thương con gái bà, tuổi mới 22 đã thành góa bụa; đứa cháu ngoại của bà Nguyễn Thị Lan Hương mới 3 tuổi đã mồ côi, không hề được thấy mặt cha lần nào  ! Bà Hòe quyết dựng một ngôi nhà nhỏ để bà sống cùng con cháu cho đến hết đời.
   Bà đưa tiền và giao cho ông Thiện,con trưởng,  lo toan mọi việc. Ngôi nhà tứ trụ ba gian bằng gỗ mít ròng được dựng lên…Mặt trước hướng nam, hồi bên trái cách ba gian thở, liền nhà ông Thiện là một mảnh sân nhỏ trồng hoa. Hồi bên phải sát hàng rào cây xanh, ngoài hàng rào là lối đi của xóm, đi thẳng lên là nhà thờ chi trung tôn họ Nguyễn bây giờ.
   Toàn bộ cơ ngơi đó là đất hương hỏa tổ tiên để lại từ đời cụ tổ thứ 3 là cụ Nguyễn Nghi, tên tự là Huệ Minh, cụ bà là Nguyễn Thị Nghị, tên tự làTừ Huệ.

  Dòng họ Nguyễn Văn xã Thanh lâm phát tích từ xã Yên đồng, tổng Việt yên, huyện La sơn, phủ Đức Quang (nay là Đức thọ, Hà tĩnh) Một dòng họ có truyền thống yêu nước, tiêu biểu là cụ cố Nguyễn Đức Lân (đời thứ 10) là quan ngự sử, đã bỏ triều đình nhà Nguyễn theo phong trào Cần vương chống Pháp.  Gái, trai, dâu, rể nhiều người nhờ cách mạng thành công mới thoát khỏi ngục tù.

                                     ,Số phận ngôi nhà lưu niệm

Mùa hè năm 1955 tôi ra Hà nội học tiếp, đã kể với chú tôi (ông Danh) vừa ở Việt bắc về tiếp quản thủ đô năm 1954, chuyện ở quê thời giảm tô mà tôi được chứng kiến. Chú tôi kể lại với ông Đặng Thai Mai là người cùng quê và là bạn học cùng ông Sách , Ông Mai kể lại với ông Phạm Văn Đồng (thủ tướng) là người hoạt động cùng thời với ông Sách thời tiền cách mạng.
   Năm 1956 quê tôi CCRĐ chưa kịp tổng kết thì đã sửa sai. Bà Hồng, cô tôi được TƯ Đảng đưa ra Hà nội nuôi dưỡng. Cuối năm 1957 tôi về quê thì nhà bà Hồng không còn nữa. Xã đã chuyển vào vườn ông  Hỷ (bác tôi) làm trụ sở đảng ủy.

  Sau khi xã đã hoàn thành trụ sở to đẹp, rộng rãi, có cả khu mộ liệt sĩ, trên hai khu vườn của ông Danh và ông Hỷ, ngôi nhà của bà Hồng đã được bán qua nhiều chủ.

  Ở Hà nội, bà Hồng và bà Loan em bà, đã có đơn khiếu nại, và thủ tướng đã chỉ thị :” Phải trả lại nhà cho người ta, không còn nhà thì trả bằng tiền.”  Ai cũng biết, cái bà Hồng quý nhất là ngôi nhà lưu niệm, còn tiền thì bà đã được đảng nuôi dưỡng, chăm sóc đầy đủ.. Cuối cùng bà cũng không đòi tiền bạc gì nữa.

                                       Lịch sử những con người

                             Ông Nguyễn Sĩ Sách (1905 – 1929)

 Là chồng bà Hồng .Ông không thể nào biết được, ở làng Liễu nha, quê vợ ông, sau khi ông hy sinh ngày 19-12-1929 (âm lịch là 19-11-Kỷ Tỵ), khi đương giữ chức bí thư Thanh niên cách mạng đồng chí hội Trung kỳ .Năm đó ông mới 24 tuổi ..
   Đời sống nhà ngục Lao bảo quá khắc nghiệt , ông đã  lãnh đạo tù nhân khu B đấu tranh đòi cải thiện, tên chúa ngục gọi lên. Ông đi, cắp theo chiếc chiếu tù . Cuộc cãi nhau bằng tiếng Pháp đến hồi căng thẳng, ông đập chiếu vào mặt chúa ngục, nó quá tức giận đuổi ông ra . Ông lững thững đi, nó rút súng bắn theo, ông hy sinh tại chỗ !

  Sau ngày tiếp quản thủ đô (1954) báo Nhân dân đã đăng bài Một chiến sĩ cách mạng: Nguyên văn : Vì sự nghiệp cách mạng nhiều đồng chí ,đồng bào ta đã hiến dâng trọn đời mình cho độc lập tự do của của đât nước, cho hạnh phúc của nhân dân .
  Ảnh bên bài báo là thông tri của VNTNCMĐCH do đồng chí Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo, nói về cái chết của đồng chí Kiếm phong , một chiến sĩ cách mạng, một trong số hàng nghìn liệt sĩ đã hy sinh vì tổ quốc.

  Toàn văn thông tri như sau : “Thông tri cho tất cả các đồng chí biết : Đồng chí Nguyễn Sĩ Sách (tên ngoài là Phong) bị bắt, đày chung thân ở Lao bảo , vận động nhà ngục, không may lộ ra, đã bị bắn ngày 19-12-1929. Chết rồi ! Thương ôi !
 
  Đồng chí là một người trong đoàn thể, đồng chí làm cách mạng cho đến khi bị bắt, bị đày mà cũng kiên quyết làm cho đến chết mới thôi. Vậy các đồng chí ở đâu đều phải làm lễ truy điệu.
                                                                    Anh em ở Tầu, 18-1-1930


                           Bà Nguyễn Thị Hồng  (1907-1998)

 Con cháu trong họ có một thời cứ nghĩ là bà mình được đảng ưu ái là nhờ quá trình làm cách mạng và sự hy sinh của ông Sách. .. Ta hãy nghe anh con rể của bà  ( Lê Kinh Duệ ) làm thơ tả cái tính vô tư của bà:
                       ”Bà quên chuyện báo công với Đảng
 .                           Nhưng công bà mật thám lại ghi
                             Với bà cách mạng khác gì
                                            Như ăn, như thở có chi phải bàn           
 Trích trong bài : Mô đã tám mươi  của anh Duệ, bà vô tư, đến tuổi mình bà cũng chẳng nhớ !

  Tôi nghĩ về bà Sách và o Kỳ, hai cô gái họ Nguyễn, O Kỳ hoạt động theo tổ chức của Đảng đã vào tù nhiều lần..còn bà Sách thì đúng là : Thương chồng, theo đảng .Bà bảo với con cháu : “Mật thám như rươi, họp hành tao không canh gác, tài liệu tao không tìm cách chuyển thì ai làm ? Bà thầm lặng hoạt động cách mạng là như vậy.

   Xin lược trích tài liệu của Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh số 38 LT/BT ngày 23-6-2000 : …” Bà Nguyễn Thị Hồng năm sinh 1907 Quê quán làng Liễu nha, tổng Bích hào, huyện Thanh chương, tỉnh Nghệ an . Cha Nguyễn Hòe, mẹ Lê Thị Dạng, chồng Nguyễn Sĩ Sách. Quá trình hoạt động: Ngày 28-10-1929 bị kết án 2 năm tù giam vì tham gia vào “Thanh niên”…Tết 1930 được ân xá…  (Hết trích)

    Cả họ ai cũng biết bà Hồng không ở tù ngày nào vì theo dương lịch, bà Hồng bị án tù trước ngày ông Sách hy sinh 53 ngày. Thời gian đó bà đang lo chạy việc xin đưa thi hài chồng về an táng ở quê, nhưng không được.

                           Xin trở lại Lịch sử ngôi nhà lưu niệm:

  Cuộc phiêu lưu của ngôi nhà từ 1957 đến năm 2018 là đã 61 năm, hai đời người! Chủ cuối cùng của ngôi nhà thấy mình đã có lộc, ăn nên làm ra, làm được nhà mới khang trang hơn, nhiều người khuyên nên tìm chủ cũ bán lại. “Lộc bất khả hưởng tận”
  Bà Hương con ông bà Sách đã 92 tuổi, đầu óc còn minh mẫn, vẫn nhận được ngôi nhà xưa của mình và đã xin mua lại.

  Bà con nội ngoại, vui mừng khôn xiết, kẻ it người nhiều góp công, góp của dựng lại ngôi nhà trên vườn họ chi trung tôn đã được tỉnh xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa từ ngày 6-7-2010. Vậy là, đúng như câu thành ngữ “Châu về Hợp phố”

Đang định kêt thúc bài viết, thì có người đọc bản thảo, yêu cầu tôi giải thích :Tại sao bà Hương 92 tuổi mà thời gian ở rất ít trong ngôi nhà này ? Tôi xin thêm vài ý cho trọn câu chuyện.

  Sau khi ông Sách hy sinh, ông Mai bạn ông Sách đã nói với bà Hồng :
 Tôi xem cháu Hương như con tôi”…nên bà Hương đã có một thời bé sống ở Hà nội cùng gia đình ông Mai, đi học cùng bà Hà, con ông Mai.

 Đại chiến thế giới 1939-1945 bùng nổ, bà Hòe sợ cảnh bom đạn, bà bắt đưa cháu bà về quê Nghệ an. Bà Hương về, học ỏ trường trung học Đặng Thúc Hứa ở Rộ   Sau lấy chồng, hai vợ chồng đã tham gia hai cuộc trường kháng chiến chống Pháp. chống Mỹ…
 
   Từ nay, mỗi lần có dịp bước vào ngôi nhà này, lớp tuổi cao niên cảm thấy bâng khuâng, tưởng nhớ những người đã từng sống ở đây… đủ ba thế hệ .

   Bà Hòe – Đời thứ 11 họ Nguyễn xã Thanh lâm (1881-1956) sống và mất ở đây…
   Bà Hồng  Đời thứ 12 (1907-1998) sống ở đây, mất ở Hà nội
   Cô Thục  Đời thứ 13 (1939-2011) sống ở đây, mất ở Sài gòn . Thục mất mẹ từ   bé, ở với bà Hòe và dì Sách từ khi mẹ mất. Trước CCRĐ được bố đón về Thanh hóa rồi lấy chồng, rồi vào công tác ở Sài gòn …

Cuối cùng, cả ba thế hệ đều đã thành người thiên cổ !…

                                                                 .”N hững người muôn năm cũ .
                                                                     Hồn ở đâu bây giờ ?”  (2)
   
==========================================================

Chú thích:  (1) Alphonse de Lamartine (1790-1869), với tập thơ Méditations (Trầm tư) đã biến ông từ một nhà thơ tỉnh lẻ thành nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ.
Nguyên văn : “Objets inanimés avez-vous donc une âme qui s’attache à nôtre âme et la force d’aimer”     (Theo google)   (2) Thơ của Vũ Đình Liên, bài Ông đồ.  

                                                                                 Hà nội, 19-11-2018
                                                                                  Nguyễn Thanh Phú
      

                                                                     
                                                          



  
  





Thứ Hai, 13 tháng 8, 2018

Ý NIỆM THỜI GIAN


       Ý NIỆM THỜI GIAN

Giữa  lung  linh  đêm  giao  thừa  thiên  kỷ
Ta  hân  hoan  với  bảy  tỷ  con   người
Ngàn  năm  nữa  mới  giao  thừa  kế  tiếp
May  mắn  này  đâu  dễ   em  ơi !

Thích  2000  ta  tôn  vinh: mở  đầu  thiên  kỷ  (1)
Ngàn  năm  xưa   ai  nghĩ  vậy  không  ?
Quá  khứ,  tương   lai  đôi  bờ  xa  lắc
Nhà  hiền  triết  nào    tựa  dòng  sông  ?

Nguồn  gốc  thời  gian,  ai  chỉ  được  cho  ta ?
“Con  thuyền  ngược” (2),  bao  giờ  sào  nhổ  được ?
Ta  xin  quá  giang  lần  về  kiếp  trước
Ghé  bến  bờ  xưa,  thơ  thẩn  viếng  cội  nguồn…

Nghĩ  mông  lung , bỗng  bừng  tỉnh…!  Trống  dồn (3)…
Chuông  gióng  giả,  giờ  giao thừa  đã  điểm 
Thiên  niên  kỷ  thứ  ba , mở  đầu  hứa  hẹn
Thời  gian  ơi ! Ngươi    tự  bao  giờ ?
                         Hà nội- Thăng long,  0h  ngày 1  tháng  1   năm  2001

Chú  thích :
(1)  Đúng   ra ,  2001  mới    năm  mở  đầu  thiên  niên  kỷ thứ  3...
(2)  Tương  tự  “Máy  thời  gian”  ( Time  machime  ), mô  hình  của  Frank  Tippler   kiểm  chứng  sự  trôi  ngược  của  thời  gian  theo  thuyết  TƯƠNG  ĐỐI  của  Einstein .
(3)  Trống  hội  Thăng  long,  đêm  giao  thừa giữa thiên  niên  kỷ  thứ  hai    thứ  ba
             Nguyễn   Thanh   Phú  ( Bài  trích  trong  sách  “Cội  nguồn  nhân  ái” của  Họ  Nguyễn  văn,    Thanh  lâm.  Nhà  xuất  bản  Nghệ  an .   Năm  2018 .

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2015

Quyển Truyện Kiều Của Tôi


Sách nhà tôi không có nhiều vì nghèo, những cuốn đắt tiền đều là do bạn bè, con cháu tặng.  Cuốn sách tôi quý và thường đọc là cuốn TRUYỆN KIỀU của nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp – khổ 13x19, loại in trên giấy đen xuất bản tại Hà nội năm 1985 . Sách được các con tôi, hai chị em Hoài, Nam đổi giấy vụn mới có. Giá chỉ 12đ mà tôi chẳng có tiền mua.
     Tôi đã đánh dấu những câu mà những người thân của tôi, những người tôi biết trên thế giới đã trích dùng. Tôi  xin ghi lại đây theo thứ tự thời gian .
  1. Chuyện ông giải Chính bói Kiều
. Ông là Nguyễn Văn Chính (1882-1936), là bác họ tôi, Ông đỗ giải nguyên khoa Nhâm Tý (1912).
Ở quê tôi còn lưu truyền giai thoại, trước khi đi thi, bạn bè sĩ tử giở sách Kiều ra bói. Được ngay câu   “Vội vàng lá rụng hoa rơi “ (câu 361 trang 42 sách đã dẫn)
  Mọi người chưa luận ra ý gì…thì ông bỗng vỗ đùi reo lên Xôi xôi (thôi thôi) các anh chật (trật) cả dồi!(rồi) (Ông có tật nói ngọng), chỉ có Chính này đỗ xôi (thôi) Mọi người vẫn ngơ ngác chưa hiểu, ông giải thích – Nghe đây, lá rụng hoa rơi là chỉ còn cành, còn chánh (Tiếng Nghệ chánh là nhánh, mà chánh lại có âm là chính, ..các anh là lá, là hoa rụng cả, thì chỉ còn “Chính” này đỗ thôi!
    Quả  vậy năm  ấy ông đỗ đầu khoa  thi  Hương (giải  nguyên). Dân  làng quen gọi ông là “quan giải”, thực ra ông chẳng làm quan bao giờ, ông chỉ dậy Hán văn ở trường Quốc học ở thành phố Vinh, Nghệ an.                        
    2- Chuyện ông Sách …(1905-1929)  
  Ông là Nguyễn Sĩ Sách, lúc đầu là bạn học của ba tôi, sau là chồng của cô ruột tôi, tôi gọi ông bằng dượng. Ông hy sinh tại nhà tù Lao bảo  năm 1929, khi  mới 24 tuổi, chức vụ bí thư Thanh niên cách mạng đồng chí hội Trung kỳ. Năm 1927 ông sang Trung quốc hoạt dộng. Ra đi bí mật, không có cách nào viết thư về nhà, ông viết bốn câu Kiều vào sau bức ảnh của ông và nhờ bạn thân là ông Đặng Thai Mai chuyển cho cô tôi  Người về chiếc bóng năm canh / Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi / Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường …(câu 1923-1926 trang 132 – sách đã dẫn)
 Bút tích trên hiện đang lưu ở Viện bảo tàng cách mạng Việt nam - Hà nội.
    3- Chuyện bà Tám Xê  
  Bà tên là Nguyễn Thị Liên Hương (1909-1962) má sinh ra bốn chị em chúng tôi, quê quán tỉnh Phú yên.  Ba tôi, thời Pháp thuộc tốt nghiệp trường Kỹ nghệ thực hành Huế ra làm nghề lục lộ, suốt đời cảnh công trường nay đây mai đó, xa vợ con, Năm 1945 vì đau ốm phải về quê Nghệ an. Má tôi phải đưa con cái  từ Phú yên về quê nội chăm sóc ba tôi. Cả nhà đi trên chuyến tầu cuối cùng để rồi đường sắt phải phá hoại, tiêu thổ  kháng chiến chống Pháp. Thời gian gia đình đoàn tụ  quá ngắn ngủi, chưa được ba tháng. Ba tôi mất giữa mùa đông năm 1946 mới 42 tuổi, má tôi năm đó 37 tuổi.
 Hai câu Kiều má tôi thường đọc mỗi khi ngồi buồn là “ Ông tơ ghét bỏ chi nhau / Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi…” thật đúng với cảnh nhà tôi hồi đó.         (câu 549-550 trang 62 sách đã dẫn)

   4- Chuyện về Tổng thống Mỹ Bin Clinton…
   Năm 2000, giữa bữa tiệc được chủ tịch Trần Đức Lương chiêu đãi, tổng thống Bin Clinton đã có lời đáp từ rất hay
    “Sen tàn cúc lại nở hoa / Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân “ (câu 1795-1796 trang 149 sđd )

   5- Chuyện phó tổng thống Mỹ Joe Biden …
    Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 7 năm 2015 được phó tổng thống Mỹ Joe Biden đọc Kiều tặng
  “Trời còn để có hôm nay / Tan sương đầu ngõ / vén mây giữa trời “ (câu 3121-3122 trang 231 sđd)

   6- Chuyện tổng thống Mỹ Barack O Bama …
   Ngày 24-5-2016 tại hội trường trung tâm hội nghị quốc gia Hà nội, trước hơn 2000 thanh niên, sinh viên Việt nam, tổng thống Barack O       
   Bama đã đọc tặng hội nghị hai câu Kiều :     “ Rằng :Trăm năm cũng từ đây / Của tin gọi một chút này làm ghi “   (  Câu 355 – 356 trang 
   42 sđd )

   7- Còn tôitrong 3254 câu Kiều, tôi rất thích câu :
     …”Mai sau dù có bao giờ…”  (câu 741 trang 76 sđd)
 Mỗi khi nghĩ đến…chuyện gì đó…lúc nào đó …rồi sẽ đến…lòng ta cứ khắc khoải trông mong, chờ đợi…
                                                           Hà nội , 24 tháng 5 năm 2016

                                                Nguyễn Thanh Phú

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015

              Qua cầu Kho
 
   Dừng chân, mường tượng dáng cầu xưa..            
   Mấy nhịp tre vang, bắc hững hờ,
Cầu Kho mới
   Cầu khỉ khẳng khiu rờn sóng nước,
   Chân lần tay vịn, bước đong đưa.
   Bé bỏng, qua cầu, ai cõng ta ?
   Chiều tà, mưa lội, dặm đường xa…
   Cầu tre lắt lẻo… niềm thương nhớ,
   Kỷ vật quê hương, chẳng thể nhòa!

   Sớm ấy (1955), ra đi… ngoái lại cầu…
   Hói Nghè nước chẩy biết về đâu?
   Trời xa…Hà nội còn vô định
   Mỗi bước chân đi…mấy dặm sầu!

   Nay về cầu mới bánh xe bon.
   Tìm hướng cầu xưa…dấu chẳng còn!
   Lòng chạnh thương người…bao kiếp trước,
   Qua cầu..gánh nặng..bước chon von !

            Thanh lâm,4-2-1989 (Tết Kỷ Tỵ)

                       Nguyễn Thanh Phú

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015



                                        Hai lần đến Đền Hùng

  Lần thứ nhất là lần chúng tôi đi công tác ở ga Việt trì. Trên đường về phải tán mãi với sếp, phó giám đốc Ngắm mới đồng ý cho xe ghé thăm đền Hùng trước ngày hội hai ngày, đó là ngày 8 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1978)
   Đền Hùng lúc bấy giờ còn  nguyên sơ lắm,  đồi núi mọc nhiều cây mua hoang dại, mùa này hoa nở tím bạt ngàn. Vui tay, tôi vừa dạo vừa ngắt một bó hoa nhỏ xinh xắn.
   Xuống núi, một cô gái trẻ tươi cười đến, xuýt xoa : - Đẹp quá! Anh cho em xin!?..
   Đó là xuất xứ  bài  thơ Mầu hoa tím của tôi:

-        Anh cho em nhành hoa ?
Tôi bối rối, sao để em phải hỏi…
Hoa mua tím, và nỗi lòng mong đợi..
Trao em rồi, tôi bổng thấy bâng khuâng !

Ơi cô em xinh trẩy hội đền Hùng
Tan hội về đâu tôi nào có biết !
Thoáng gặp gỡ sao như đà thân thiết
Có phải vì em ..yêu mầu tím như tôi?

                                     Đền Hùng, 1978

      Ba mươi hai năm sau,  năm 2010 tôi lại có dịp thăm đền Hùng lần nữa, lần này được công ty UPSELEC mời đi du lịch. Ngỡ ngàng và nuối tiếc trước bao cảnh đổi thay..! 
   Nhưng  rồi,  bỗng cảm thấy phảng phất một nỗi buồn …chẳng còn thấy hoa mua đâu nữa, bê tông hóa hết rồi, được cái là, đi trong mưa, cả buổi,  giầy không lấm bẩn.
   Tâm trạng cứ như người về thăm quê, chẳng còn được thấy  gốc đa, bến nước,sân đình…
    Dù sao  Mầu hoa tím vẫn mãi còn trong tâm tưởng.

                                                          Blog Chuyện đời Nguyễn Thanh Phú


  


Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

Kỷ lục tuổi thọ

Kỷ lục tuổi thọ
     Kính tặng bác Côn
Gia phả họ ta vẫn có câu rằng :
…”Trai họ Nguyễn đa tài nhưng đoản thọ (!?)”
Sáu, bảy mươi thôi, đã hiếm người tới đó.
Nay cả họ mừng, bác GIAI LÃO BÁCH  NIÊN
Kỷ lục này bác xác lập đầu tiên !
                           Xuân Giáp Ngọ - 2014
  Tám anh em trai thế hệ 13 cửa cố Ngự sử :
Dung, Tuyết, Thạch, Phú, Kiều, Hưng, Tuyến, Ân.
                                                Kính tặng.